TS PHÙNG LÊ DUNG
Viện Kinh tế Chính trị – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật và kinh tế châu Âu ngày 10/6/2022 )
Tóm tắt: Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp. Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân không chỉ thực hiện sự chuyên môn hóa trong sản xuất, nâng cao chất lượng, giá trị hàng nông sản, góp phần phát triển nền sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, hiện đại, công nghệ cao mà còn là chìa khóa trong xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, mở ra cho hàng nông sản Việt Nam nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trường thế giới, tăng cường năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, tình hình liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân hướng đến mục tiêu xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam ra thị trường quốc tế để tìm ra những giải pháp thích hợp là cần thiết
- NHỮNG LỢI ÍCH CỦA LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ HỘ NÔNG DÂN
Thực tế cho thấy liên kết kinh tế trong nông nghiệp, đặc biệt là liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, đem lại nhiều lợi ích rõ ràng dễ nhận thấy như góp phần bù đắp những “khoảng trống” về vốn, kỹ thuật, thị trường trong phát triển nông nghiệp nói chung và nền nông nghiệp bên vững nói riêng, đồng thời, đây cũng là đòn bẩy để đưa một nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, chất lượng cao và hội nhập thị trường quốc tế. Bên cạnh những lợi ích tổng thể như vậy còn có những lợi ích cụ thể như sau
Thứ nhất, thực hiện sự phân công lao động, chuyên môn hóa trong sản xuất, kinh doanh hàng nông sản. Thực hiện liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp chính là cơ sở để thực hiện phân công lao động, chuyên môn hóa từng khâu trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng nông sản. Mỗi chủ thể khi tham gia liên kết kinh tế sẽ đảm nhiệm một lĩnh vực hoặc một khâu mà mình có thế mạnh. Chẳng hạn, với lợi thế và kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, các hộ nông dân có thể chuyên môn hóa trong canh tác, sản xuất, chăm bón; các doanh nghiệp chuyên môn hóa trong chuyển giao kỹ thuật sản xuất công nghệ cao trong chế biến, tiêu thụ hàng nông sản. Đặc biệt, đối với lĩnh vực chế biến sâu hàng nông sản, các hộ nông dân riêng lẻ khó có thể làm được vì thế vai trò của doanh nghiệp là rất lớn. Nhóm hàng nông sản rau – củ – quả sẽ bị lãng phí nếu chỉ dừng lại ở tiêu thụ ở sản phẩm sơ chế. Trong khi đó, nếu được chế biến sâu, giá trị nông sản có thể tăng từ 10 đến 20 lần, từ đó gia tăng lợi nhuận. Khi các nhà máy chế biến sâu ra đời, nhất là những nhà máy công suất lớn do những doanh nghiệp lớn đảm nhiệm, nông sản của hộ nông dân sẽ đảm bảo được tiêu thụ toàn bộ, qua đó, góp phần nâng cao thu nhập cho hộ nông dân. Hơn nữa, liên kết kinh tế góp phần xóa bỏ cách thức sản xuất, kinh doanh khép kín, đơn cực. Đồng thời, mở rộng hợp tác, thúc đẩy mạnh mẽ chuyên môn hóa trong từng khâu, từng công đoạn của sản xuất, chế biến và tiêu thụ, góp phần mở rộng thị trường. Thứ hai, tạo sự ổn định, sức cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp và nâng cao chất lượng, giá trị hàng nông sản. Mục tiêu của doanh nghiệp và hộ nông dân là tạo ra sự phát triển ổn định, bền vững trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng nông sản. Nếu không có liên kết kinh tế, các chủ thể khó có đủ nguồn lực để ổn định sản xuất (có thể thiếu vốn, công nghệ, lao động, đất đai cũng như thiếu nguồn tiêu thụ, nguồn cung ứng hàng nông sản). Do đó với sự liên kết như vậy sẽ giúp các chủ thể yên tâm sản xuất kinh doanh, góp phần đảm bảo hình thành chuỗi giá trị hàng nông sản có chất lượng cao, giảm chi phí trung gian để tạo sức cạnh tranh trên thị trường, hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài như khủng hoảng kinh tế, thiên tai và các rủi ro khác. Hơn nữa, tham gia liên kết kinh tế, với việc tiếp cận dễ dàng hơn các nguồn lực, đặc biệt là vốn và khoa học công nghệ, quy trình sản xuất chặt chẽ theo từng khâu, phải đảm bảo các yêu cầu khắt khe theo nhiều tiêu chuẩn như GLOBALGAP, USDA, PGS sẽ làm cho sản xuất ổn định hơn. Đồng thời, chất lượng và giá trị của hàng nông sản được nâng lên, đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao thương hiệu hàng nông sản Việt Nam, góp phần đẩy mạnh tiêu thụ hàng nông sản, mở rộng quy mô sản xuất. Thứ ba, góp phần phát triển nền sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, hiện đại, công nghệ cao. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế chủ nghĩa bảo hộ đang có xu hướng quay trở lại và những ảnh hưởng rõ rệt của biến đổi khí hậu, nông nghiệp, hộ nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp ngày càng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: bắt kịp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra nhanh chóng, sâu, rộng; khả năng ứng biến với các tình hình quốc tế khó lường, diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, suất đầu tư trên một đơn vị diện tích ngày càng cao. Mặt khác, kinh tế thị trường tạo ra một luật chơi chung cho tất cả các chủ thể tham gia, “đó là luật chơi của kinh tế thị trường toàn cầu”. Trong cuộc chơi này, “Ai là người có thể thích ứng một cách tốt nhất với sự thay đổi của thị trường? Ai có thể tạo nên các làn sóng đổi mới công nghệ nhanh nhất. Sự thách thức là rất lớn. Những người thắng cuộc sẽ có lợi nhuận và tiền công cao hơn, còn những người thua cuộc sẽ bị tụt lại đằng sau”. 1 Cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc mở rộng thị trường không dễ dàng. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Để thay đổi từ một nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là một quá trình lâu dài và phức tạp, với nhiệm vụ hàng đầu là tăng năng suất lao động.2 Ông viết: “Nếu vài ba ngày cũng đủ để giành được chính quyền nhà nước trung ương, và trong vài tuần lễ cũng có thể dẹp tan được sự phản kháng quân sự… thì vô luận thế nào… cũng phải mất nhiều năm mới giải quyết được vững chắc nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động”.3 Con đường để có một nền nông nghiệp có năng suất lao động cao là cần có một cuộc cách mạng về khoa học công nghệ, về thay đổi tổ chức sản xuất kinh doanh, về nhân lực tham gia và phát triển thương mại cho nền nông nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, con đường đó được thực hiện nhanh và hiệu quả hơn rất nhiều bằng cách tăng cường liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp với hộ nông dân. Vì liên kết kinh tế tạo cơ hội và kích thích các chủ thể kinh tế ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, chuyển giao công nghệ cho nhau với chi phí hợp lý, thời gian nhanh chóng. Từ đó, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tạo ra một khối lượng hàng nông sản lớn hơn và đảm bảo những quy định nghiêm ngặt trong từng khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng nông sản, đồng thời, tạo ra giá trị gia tăng cho hàng nông sản. Thứ tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất (bao gồm cơ cấu cây trồng, vật nuôi) theo hướng chuyên môn hóa theo vùng lãnh thổ và mở rộng liên kết vùng. Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân với vùng nguyên liệu tập trung có mối quan hệ gắn bó mật thiết, chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Liên kết kinh tế, một mặt, quy tụ, tập trung các hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ, phân tán thành cụm, thành tổ, thành nhóm để thuận lợi cho việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, đưa công nghệ mới vào sản xuất, đẩy mạnh cơ giới hóa cũng như thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát hay thu mua nông sản; mặt khác, hướng sản xuất vào một loại cây, con thế mạnh nhất định như năng suất, chất lượng cao, giá thành hợp lý, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Từ đó, dần hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh. Điều này dẫn đến cơ cấu cây trồng vật nuôi của vùng có sự chuyển dịch và thay đổi theo hướng tích cực và chuyên môn hóa. Đồng thời, sự hình thành các vùng sản xuất tập trung sẽ là điều kiện để tăng cường liên kết vùng theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Thứ năm, giải quyết các khó khăn giữa doanh nghiệp và hộ nông dân. Với sự phát triển không đều của lực lượng sản xuất, mỗi chủ thể trong nền kinh tế đều có những điểm mạnh và điểm yếu khác nhau. Do đó, để phát huy những điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu, các chủ thể kinh tế cần liên kết với nhau. Với doanh nghiệp và hộ nông dân, khi nguồn cung ổn định và lợi ích được tối đa hóa thì điều hướng đến là giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí giao dịch, giảm giá thành, cung cấp nông sản chất lượng tốt hơn.4 Để làm được điều đó, doanh nghiệp và hộ nông dân cần hỗ trợ nhau bằng cách sử dụng, phát huy lợi thế so sánh của hai bên, để bổ sung cho nhau và cùng phát triển. Dưới hình thức kết hợp doanh nghiệp và nông dân cùng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sử dụng thế mạnh của mình là cung ứng vốn, nguyên vật liệu, đầu tư quy trình khoa học công nghệ, tiếp cận thị trường. Trong khi đó, hộ nông dân sử dụng thế mạnh của mình là cung ứng đất đai, lao động để tiến hành sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, đảm bảo hàng nông sản có chất lượng tốt. Đồng thời, trong những trường hợp do thiên tai, dịch bệnh hoặc những biến động bất lợi trên thị trường, sự liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân sẽ là phương thức tốt để doanh nghiệp và hộ nông dân cùng nhau giải quyết khó khăn. Phương thức này vượt trội hơn hẳn so với việc mỗi chủ thể phải tự xoay xở để vượt qua khó khăn, đặc biệt là hộ nông dân, vốn là đối tượng yếu thế hơn, dễ bị tổn thương hơn trong nền kinh tế. Thứ sáu, góp phần thay đổi tư duy, nhận thức của doanh nghiệp và hộ nông dân trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Đặc điểm, nhận thức và tập quán của các hộ nông dân ở các vùng có trình độ nhận thức và năng suất sản xuất thấp vẫn mang nặng tư tưởng “tiểu nông” với tâm lý và tư duy sản xuất nhỏ, sức ỳ lớn. Người nông dân vẫn chưa thoát được lối tư duy ngắn hạn, thấy lợi trước mắt thì làm, chưa có sự tính toán, phân tích thị trường. Đây là những rào cản lớn đối với các hộ nông dân khi tham gia vào nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, khi liên kết với doanh nghiệp, hộ nông dân được tiếp cận trình độ sản xuất công nghệ cao, quy trình kỹ thuật bài bản và cần đảm bảo các yêu cầu nhất định. Do đó, các hộ nông dân dần được nâng cao trình độ, thay đổi thói quen, lề lối làm việc tự do. Từ đó, khắc phục những điểm yếu cũng như phát huy được tối đa những điểm mạnh vốn có. Như vậy, thông qua liên kết kinh tế sẽ làm thay đổi tư duy tiểu nông, sản xuất nhỏ trong nông nghiệp mà thay vào đó là tư duy sản xuất, kinh doanh nông nghiệp của nền kinh tế thị trường trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Nguồn : VOV
- TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC HƯỚNG ĐẾN MỤC TIÊU XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN RA THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ TRONG LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ HỘ NÔNG DÂN
Thứ nhất, Việt Nam xuất phát là một nước nông nghiệp điển hình, được thiên nhiên ưu đãi nhiều mặt để phát triển nông nghiệp với nguồn tài nguyên đa dạng, đất đai màu mỡ, trù phú, khí hậu nhiệt đới gió mùa và hệ thống sông ngòi chằng chịt. Do đó, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh quốc gia rất lớn trong ngành nông nghiệp. Mặt khác, xuất khẩu là con đường nhanh nhất thúc đẩy hàng nông sản phát triển, nâng cao tính cạnh tranh, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới cũng như tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời, đem về lợi nhuận cao và có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế đất nước. Nhiều năm nay, Việt Nam liên tục là nước xuất khẩu một số mặt hàng nông sản hàng đầu thế giới. Cụ thể, đối với mặt hàng gạo, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2021 đạt hơn 6,2 triệu tấn; kim ngạch đạt hơn 3,2 tỷ USD; giá xuất khẩu bình quân hơn 526 USD/tấn; giảm 0,19% về lượng, tăng 5,3% về trị giá và tăng hơn 27 USD/ tấn về giá xuất khẩu so với năm 2020; đứng thứ ba trong số các quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Ngoài ra, cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam đang dần chuyển dịch theo hướng gia tăng các loại gạo thơm, gạo đặc sản, gạo Japonica, gạo trắng phẩm cấp cao với giá bán và giá trị gia tăng cao hơn (Biểu đồ 1). Sở dĩ đạt được kết quả trên là do chính sách nâng cao giá trị hàng nông sản đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế thông qua mối liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân mà điển hình là các tập đoàn lớn như: Tập đoàn Lộc Trời, tập đoàn Tân Long
Một số nông sản của Việt Nam tại thị trường Thái Lan
( Nguồn: Bộ Công Thương)
Biểu đồ 1. Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm giai đoạn 2012-2021
Nguồn: Tổng Cục Hải quan (Biểu đồ: Hoàng Hiệp
Đối với mặt hàng cà phê, theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), năm 2021, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 1,52 triệu tấn, trị giá xấp xỉ 3 tỷ USD, tuy giảm 2,7% về lượng, nhưng tăng 9,4% về trị giá so năm 2020. Cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện đứng thứ 2 thế giới (sau Brazil), có mặt ở hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tập trung chủ yếu ở những thị trường lớn như Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Italia, Bỉ, Anh và các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản. Các doanh nghiệp đóng góp lớn nhất cho xuất khẩu cũng là doanh nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với hộ nông dân. Điển hình là Công ty TNHH Vĩnh Hiệp, Công ty cổ phần tập đoàn INTIMEX.
Biểu đồ 2: Lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2020-2022
Nguồn: Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê (Biểu đồ: Hoàng Hiệp)
Như vậy, sự liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân là chìa khóa trong xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, là đòn bẩy để hiện thực hóa một nền nông nghiệp hiện đại, năng suất, chất lượng cao và có vị thế lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Thứ hai, theo Mác, trong quá trình hoạt động, tư bản sản xuất nhường một phần lợi nhuận cho tư bản thương nghiệp. Điều này đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Tư bản sản xuất có thời gian tập trung vào quá trình sản xuất, giảm dự trữ, nhờ đó mà gia tăng giá trị thặng dư, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đối với tư bản thương nghiệp, họ đẩy mạnh giao thương và đem về những khoản lợi nhuận khổng lồ và dần trở thành những nhà tư bản công nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, trong mối quan hệ giữa thương lái và hộ nông dân xảy ra hiện tượng phổ biến là thương lái bắt chẹt hộ nông dân. Do đó, có thể thấy, chỉ những nhà sản xuất lớn mới làm được điều Mác nói. Lênin khẳng định: “Kinh tế nông dân, với tư cách là một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được, nếu không có một sự tự do trao đổi nào đó và không có những quan hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự do trao đổi đó”. Nông nghiệp của các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, về cơ bản vẫn là một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp. Do vậy, hàng nông sản chưa tạo được chỗ đứng cũng như sự cạnh tranh trên trường quốc tế. Vì thế, hình thức sản xuất cá thể, nhỏ như hộ nông dân cần liên kết với nhau, cần xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường và liên kết với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế, có trình độ và chuyên môn kỹ thuật, có thị trường lớn để tham gia vào thị trường quốc tế, gia tăng lợi nhuận và thu nhập. Thứ ba, Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào sân chơi toàn cầu trong các tổ chức quốc tế và khu vực như WTO, sân chơi khu vực như ASEAN, APEC Quá trình hội nhập sâu là cơ hội cho Việt Nam tranh thủ ngoại lực để tăng trưởng và phát triển. Việc gia nhập WTO năm 2007 và sau đó là tham gia 13 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, trong đó có một số FTA thế hệ mới, nổi bật là CPTPP và EVFTA, đã và đang mở ra cho hàng nông sản Việt Nam nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trường thế giới, tăng cường năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- TÌNH HÌNH LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ HỘ NÔNG DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Về chính sách khuyến khích liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Việt Nam hiện có 56 địa phương đã ban hành chính sách khuyến khích liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, 48 địa phương ban hành danh mục các ngành hàng, sản phẩm chủ lực quan trọng cần khuyến khích liên kết, 35 địa phương ban hành phân cấp phê duyệt hỗ trợ liên kết, 16 địa phương phê duyệt đề án, dự án liên kết với 359 dự án được phê duyệt.5 Với mục đích đẩy mạnh liên kết sản xuất một số sản phẩm chủ lực, từ năm 2018 đến nay, các địa phương tích cực hỗ trợ tư vấn xây dựng liên kết 74 chuỗi; hỗ trợ tập huấn, đào tạo 2.048 lớp; hỗ trợ xây dựng 357 mô hình khuyến nông; hỗ trợ chuyển giao ứng dụng khoa học – kỹ thuật, áp dụng quy trình kỹ thuật và quản lý chất lượng đồng bộ theo chuỗi cho 93 chuỗi; hỗ trợ xác nhận, chứng nhận sản phẩm an toàn, xây dựng thương hiệu và quảng bá cho 257 sản phẩm.6 Về mô hình liên kết, từ các chính sách, chính quyền các địa phương đã xây dựng được 26 mô hình chuỗi liên kết giữa hộ nông dân – hợp tác xã – doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Trong đó, có 18 mô hình hợp tác xã liên kết sản xuất và tiêu thụ mía đường và tám mô hình hợp tác xã liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo. Có 1.621 chuỗi nông sản an toàn được chứng nhận với 2.346 sản phẩm. Về số hộ nông dân và doanh nghiệp tham gia liên kết, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2020, trên cả nước có 9.123.018 đơn vị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, giảm 1,82% so với năm 2016. Cụ thể có 9.108.129 hộ sản xuất, giảm 1,86%; 7.418 hợp tác xã, tăng 6,80%; 7.471 doanh nghiệp, tăng 94,25%, bình quân mỗi năm tăng 906,3 doanh nghiệp. Trong đó, gần 587 nghìn hộ nông dân, 4.028 hợp tác xã nông nghiệp tham gia liên kết với 1.867 doanh nghiệp trong sản xuất, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. 7 Sự biến động, nhất là sự tăng trưởng mạnh mẽ của doanh nghiệp nông nghiệp với sự gia tăng 94,25%, thể hiện quá trình tái cơ cấu tổ chức sản xuất, hướng đến phát triển những hình thức và quy mô sản xuất có năng suất, chất lượng, hiệu quả và giá trị hàng hóa cao. Tuy nhiên, về số hộ nông dân tham gia liên kết chỉ chiếm khoảng 6% tổng số hộ nông dân trên cả nước và số doanh nghiệp tham gia liên kết cũng chỉ chiếm xấp xỉ 25% tổng số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Về số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, con số này càng thấp hơn nữa, chỉ chiếm 1,2% tổng số các doanh nghiệp trên các lĩnh vực khác nhau đang hoạt động trong cả nước.8 Về sản lượng hàng nông sản, tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam mới có 11- 14% sản lượng nông nghiệp tiêu thụ thông qua liên kết. Ở Hà Nội, đã hình thành 135 chuỗi liên kết an toàn thực phẩm, trong đó có 56 chuỗi sản phẩm có nguồn gốc động vật và 79 chuỗi sản phẩm có nguồn gốc thực vật, thu hút nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ nông dân tham gia. Ở Đồng Nai, đang phát triển 120 chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản. Trong đó, có 16 chuỗi liên kết theo dự án cánh đồng lớn với 28 doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia, tổng diện tích 5.521 ha. Hơn 100 chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
Nguồn: danviet
Về chất lượng hàng nông sản, tỷ lệ thực hiện các quy trình an toàn như VietGap, GlobalGap trong các chuỗi liên kết còn thấp, vẫn chỉ dao động trong khoảng 3-5%.10 Như vậy có thể thấy, liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân ở Việt Nam mặc dù có được một số thành tựu nhưng còn tồn tại nhiều hạn chế như sau. Thứ nhất, số lượng liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân trên cả nước vẫn chưa nhiều và chưa được nhân rộng, còn khiêm tốn so với tiềm năng phát triển của đất nước. Thứ hai, quy mô liên kết còn nhỏ, chủ yếu doanh nghiệp và hộ nông dân vẫn liên kết ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún, tự phát, thể hiện ở cả diện tích liên kết cũng như số lượng hộ nông dân và số doanh nghiệp tham gia liên kết. Thứ ba, doanh nghiệp và hộ nông dân còn bị động trong việc lựa chọn mặt hàng để sản xuất và cách thức sản xuất trong hoạt động liên kết. Đồng thời, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, chi phí cho việc tìm kiếm nguồn cung đầu vào như đất đai, giống, hạ tầng giao thông, tìm kiếm nguồn chế biến, bảo quản, tìm kiếm thị trường phù hợp với nhu cầu và mục đích liên kết kinh tế. Thứ tư, trong liên kết việc ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình sản xuất còn ở phạm vi hẹp, tiêu chuẩn công nghệ an toàn đạt chất lượng quốc tế như USDA, ACO, OFC, GloBAL chưa phổ biến. Tiêu chuẩn khoa học công nghệ vẫn chủ yếu dựa trên quy trình tự thân, tự công bố, tự kiểm định hoặc do chính quyền từng tỉnh, thành phố đặt ra. Chính vì vậy, liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân khó mở rộng quy mô, mở rộng thị trường, đồng thời còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, nhất là việc sử dụng các loại phân bón vô cơ gây thoái hóa đất đai, ô nhiễm nguồn nước. Mặt khác, trong liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân đi vào sản xuất theo hướng hữu cơ (Organic) còn ít, chỉ mới có một vài doanh nghiệp áp dụng. Đây là xu hướng phát triển nông nghiệp trong tương lai. Thứ năm, giải quyết quan hệ lợi ích giữa doanh nghiệp và hộ nông dân còn nhiều vướng mắc khiến mối liên kết này chưa thực sự bền vững và đạt hiệu quả cao nhất. Vì những bất cập nêu trên nên liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân ở Việt Nam vẫn chưa trở thành một xu thế, đang trong giai đoạn phát triển tự phát, liên kết thụ động, chưa bền vững, còn lỏng lẻo, nhiều bất cập. Vì vậy, liên kết kinh tế không tránh khỏi những rủi ro và khó khăn. Mô hình liên kết kinh tế theo chuỗi giá trị nông sản còn ít nên toàn ngành nông nghiệp nói chung phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế, chưa tạo ra được nhiều giá trị gia tăng.
- MỘT SỐ GỢI Ý GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ HỘ NÔNG DÂN ĐỂ THỰC HIỆN HIỆU QUẢ MỤC TIÊU XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM RA THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị”11 phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân cũng như nâng tầm vị thế của ngành nông nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp được xem là khâu kết nối giữa sản xuất (hộ nông dân) và thị trường. Thúc đẩy liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động, gia tăng giá trị sản phẩm và tạo được chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng và để khắc phục những hạn chế nêu trên, liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân cần một hệ thống những giải pháp đồng bộ và hiệu quả như một số gợi ý sau. Thứ nhất, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân Về chính sách đất đai: Cần quy hoạch các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng sản xuất chuyên canh dựa trên các điều kiện sinh thái thổ nhưỡng thích hợp nhất với loại cây con được quy hoạch, những diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng kém hiệu quả cũng cần được tính toán, chuyển đổi sang các loại cây trồng vật nuôi khác để liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân phát huy được lợi thế về điều kiện tự nhiên. Trên cơ sở đó, nâng cao năng suất và chất lượng hàng nông sản, tăng hiệu quả kinh tế cho các liên kết; Cần xây dựng các chương trình, dự án chuyên sâu nghiên cứu triển khai thực hiện quy hoạch đất một cách hiệu quả, bền vững, tránh lãng phí cũng như làm giảm chất lượng liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân vì đất đai là tài nguyên khan hiếm, có hạn, có vai trò gián tiếp duy trì sự tồn tại của con người; Cần thực hiện việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ nông dân để giúp họ có nguồn lực liên kết kinh tế với doanh nghiệp. Đồng thời, có thể sử dụng quyền sử dụng đất của mình để làm tài sản thế chấp vay vốn phát triển và thực hiện liên kết ổn định, bền vững hơn. Mặt khác, phải tiến hành rà soát, điều chỉnh và xây dựng quy hoạch sản xuất kinh doanh nông nghiệp một cách cụ thể cho các tỉnh, thành phố trong vùng phù hợp với tình hình thực tiễn, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh trong quá trình liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân. Về chính sách tài chính (hỗ trợ thuế, hỗ trợ cho doanh nghiệp và hộ nông dân vay vốn sản xuất kinh doanh): Cần đơn giản hóa các thủ tục, quy định về thẩm định các điều kiện được vay vốn chặt chẽ hơn; Đặc biệt cần chú ý hỗ trợ cho doanh nghiệp nông nghiệp, hộ nông dân vay vốn ưu đãi để sản xuất nông nghiệp ở các khâu mua cây con giống; Đầu tư nhà xưởng, thiết bị máy móc ứng dụng công nghệ cao; Mở rộng diện tích sản xuất, dồn điền đổi thửa với lãi suất hợp lý, dài hạn đủ để doanh nghiệp nông nghiệp và hộ nông dân thu hồi vốn và có lãi. Mặt khác, các tổ chức tín dụng cần hỗ trợ, hướng dẫn các doanh nghiệp và hộ nông dân sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả, đúng mục đích thông qua trợ giúp kỹ thuật, trợ giúp kết nối, tiếp cận nguồn nguyên liệu, vật tư. Nhờ đó, năng lực liên kết của doanh nghiệp và hộ nông dân sẽ được củng cố, năng lực tham gia liên kết vào chuỗi giá trị sẽ được nâng cao. Về chính sách khuyến khích ứng dụng công nghệ cao: Đối với những mô hình liên kết kinh tế có ứng dụng công nghệ cao, cần có những ưu đãi nhất định về tài chính (vay vốn, thuế). Bên cạnh đó, nhà nước có thể đưa cán bộ khoa học về hỗ trợ cho các mô hình liên kết kinh tế để hướng dẫn chuyển giao công nghệ mới; Đầu tư một phần kinh phí để xây dựng, lắp đặt các thiết bị công nghệ cao ở một số công đoạn sản xuất, kinh doanh như: sử dụng giống có năng suất cao, hệ thống tưới nước tiết kiệm, công nghệ bảo quản sạch, dây chuyền chế biến hiện đại. Về xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân: Cần nâng cao chất lượng xây dựng, triển khai và quản lý quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ ở cả khu vực thành thị và nông thôn; Tập trung làm tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất “sạch”; Đưa ra những ưu đãi cần thiết đối với những dự án nằm trong danh mục có tính chất trọng tâm, trọng điểm để khuyến khích đầu tư; Đa dạng hóa các hình thức đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng, nhất là các hình thức PPP, BOT, BT; Hiện đại hóa các cơ sở thông tin truyền thông nhằm đáp ứng yêu cầu quảng bá hình ảnh của vùng đồng thời đáp ứng yêu cầu truyền thông của các nhà đầu tư; Đảm bảo đáp ứng các yêu cầu tìm kiếm thông tin của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế Xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và vùng nông nghiệp công nghệ cao, vùng chuyên canh, các cụm công nghiệp phục vụ nông nghiệp gắn với nguồn nguyên liệu như kho bãi, nhà máy sơ chế, chế biến và chế biến sâu; Xây dựng các khu phụ trợ riêng cho các ngành hàng chủ lực tại các cùng chuyên canh, vùng nông nghiệp công nghệ cao như: hệ thống kho bãi, nhà máy chế biến; Xây dựng một số trung tâm thương mại, các chợ nông sản để giao dịch nông sản, quảng bá sản phẩm, tại đây cần có bến bãi, kho chứa, sàn giao dịch, trạm kiểm dịch và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp từ hệ thống giao thông đồng bộ, làm và nâng cấp những tuyến đường huyết mạch đáp ứng nhu cầu vận chuyển nguyên liệu, tiêu thụ nông sản; Làm tốt công tác thủy lợi, hoàn chỉnh hệ thống tưới tiêu theo hướng đa mục tiêu, vừa phục vụ cho cây trồng,vừa phục vụ cho chăn nuôi, sản xuất thủy sản và cho các mục đích khác như phòng chống tiên tai, đáp ứng mục tiêu khai thác hiệu quả nguồn nước, giảm phát thải cacbon, phục vụ sản xuất nông nghiệp; Ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống điện nông thôn kết hợp giữa việc sử dụng hệ thống năng lượng tái tạo tại các địa phương và hệ thống điện lưới quốc gia. Về các chính sách hỗ trợ sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản khác: Một là, cần tăng cường tuyên truyền về liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, về những lợi ích của liên kết kinh tế cũng như trách nhiệm pháp lý, quyền lợi, nghĩa vụ khi tham gia liên kết với doanh nghiệp của của hộ nông dân. Tích cực giới thiệu các điển hình, các bài học kinh nghiệm, các mô hình liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân hiệu quả trong thực tiễn thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo, đài, truyền hình. Cần thiết kế một kênh truyền hình, một tần số phát sóng trên đài riêng về chủ đề liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân. Mặt khác, tăng cường cung cấp những thông tin, dự báo hữu ích về thị trường và nông sản một cách thường xuyên, kịp thời để doanh nghiệp và hộ nông dân chủ động trong việc thực hiện quy trình sản xuất, ứng dụng công nghệ, bảo đảm năng suất, chất lượng nông sản đáp ứng yêu cầu của từng thị trường. Hình thức tuyên truyền cần đa dạng, phong phú, phù hợp với tập quán, thói quen của hộ nông dân và doanh nghiệp từng địa phương, từng vùng với các nội dung tuyên truyền dễ hiểu, dễ nhớ, minh bạch, có sức thuyết phục cao; Tổ chức các lớp bồi dưỡng, nâng cao kiến thức định kỳ về liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân. Hai là, chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực cho liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, chủ yếu là đào tạo tại chỗ. Nguồn nhân lực cho đào tạo bao gồm: đội ngũ quản lý, quản trị, lao động trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Thứ hai, nâng cao năng lực cho doanh nghiệp và hộ nông dân trong liên kết kinh tế Đối với doanh nghiệp: Một là, doanh nghiệp nâng cao trình độ chuyên môn trong sản xuất kinh doanh, tăng tích lũy vốn để tăng sức mạnh vật chất trong liên kết kinh tế; Tham gia các chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá thông tin kinh tế, kỹ thuật, thị trường để có chiến lược kinh doanh hiệu quả phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; Đặc biệt mỗi doanh nghiệp liên kết với hộ nông dân cần có những hiểu biết căn bản về loại nông sản mình đầu tư. Hai là, doanh nghiệp cần đổi mới sáng tạo không ngừng, có kế hoạch sắp xếp, tổ chức lại cơ sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ theo hướng sử dụng thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại để giảm thiểu chi phí sản xuất, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao để nâng cao tính cạnh tranh của nông sản, bắt kịp với xu thế và thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường; Giảm dần các cơ sở sản xuất, chế biến và tiêu thụ nhỏ lẻ, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, năng suất và chất lượng thấp. Ba là, doanh nghiệp cần tăng cường năng lực quản trị của mình, không ngừng xây dựng và phát triển thương hiệu, khai thác chỉ dẫn địa lý với hàng nông sản. Bốn là, doanh nghiệp cũng cần nắm bắt các phương thức kinh doanh mới trong điều kiện cách mạng công nghiệp 4.0 như sự phát triển của thương mại điện tử, nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái. Đối với hộ nông dân: Một là, hộ nông dân cần nâng cao năng lực về chuyên môn kỹ thuật từ khâu giống, chăm bón cho đến khâu bảo quản, chế biến và tiêu thụ và không ngừng tiếp nhận những kỹ thuật công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, tham quan, trao đổi kinh nghiệm. Hai là, hộ nông dân cần nâng cao trình độ hiểu biết về thị trường, cần được trang bị những kiến thức cần thiết về kinh tế thị trường để có hiểu biết hơn về sản xuất hàng hóa, kinh doanh nông nghiệp. Đồng thời, trang bị kiến thức về cách xây dựng và đánh giá dự án, từ cấp độ đánh giá được mức độ khả thi của dự án, quá trình triển khai dự án đến đánh giá mức độ hiệu quả của dự án, cách thức thu thập, nắm bắt thông tin, cũng như nâng cao trình độ tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Từ đó, nâng cao năng lực tham gia thị trường của hộ nông dân. Ba là, hộ nông dân cần nâng cao hiểu biết về liên kết kinh tế, về các hợp đồng nông sản để bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân, để có được những hợp đồng nông sản tốt hơn, tránh tình trạng bị doanh nghiệp “chèn ép”, “bắt chẹt”, bên cạnh đó là ý thức pháp luật. Bốn là, hộ nông dân cần học hỏi tư duy, tầm nhìn dài hạn, tránh tâm lý “ăn xổi”, ham lợi trước mắt vì thương lái và doanh nghiệp thường lợi dụng điểm yếu này của hộ nông dân để ép giá, lũng đoạn thị trường. Năm là, quan trọng nhất, mỗi hộ nông dân liên kết với doanh nghiệp phải không ngừng cố gắng để trở thành một hộ kinh doanh, dưới sự hỗ trợ của nhà nước, đồng thời phải có sự liên kết với nhau để cùng tìm kiếm thị trường, xây dựng thương hiệu. Bên cạnh đó, cần lập ra một Ban quản trị hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ số để kết nối các hộ nông dân cùng ngành hàng, cùng vùng, cùng địa phương với nhau để người nông dân có nơi để liên lạc, trao đổi thông tin trước mắt là trên phạm vi cả nước. Thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát đối với hoạt động liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân để đảm bảo tính minh bạch của liên kết, hài hòa lợi ích giữa các chủ thể. Từ đó, các hộ nông dân nâng cao được trình độ cũng như có một kênh nắm bắt thông tin hiệu quả. Như vậy, những yếu tố trên sẽ dần dần từng bước gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, đưa hộ nông dân trở thành những hộ nông dân hiện đại, có trình độ, có kỹ năng, làm quen với tư duy, kỷ luật công nghiệp, có tri thức, có khả năng ứng dụng công nghệ cao để sản xất chuyên môn hóa, tự động hóa, làm cho liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân trở thành một bước đệm để hộ nông dân phát triển sứ mệnh của mình. Thứ ba, giải quyết quan hệ lợi ích trong liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân Các nhà sản xuất, kinh doanh, dù là doanh nghiệp hay hộ nông dân thì mục đích chính là đảm bảo lợi ích trong hành động. Khi thực hiện liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, sự phân chia lợi ích giữa doanh nghiệp và hộ nông dân là vấn đề phức tạp nhất. Những mâu thuẫn luôn có thể xảy ra khi một bên nào đó muốn giành nhiều lợi ích hơn, vì thế làm tổn hại đến lợi ích của bên kia, dẫn tới hậu quả làm tan rã liên kết. Trong mối liên kết kinh tế, người nông dân thường ở thế bị động hơn, ít có khả năng tự chủ, phụ thuộc vào doanh nghiệp. Những vấn đề như “được mùa – mất giá”, “được giá – mất mùa”, bị ép giá là những vấn đề thường xuyên của thị trường. Nguyên nhân là do hộ nông dân đa phần còn hạn chế về nhận thức, chưa chú trọng tìm hiểu luật kinh tế, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến hợp đồng kinh tế. Do đó, để đảm bảo cho sự liên kết ổn định, bền vững, một trong những giải pháp là hài hòa quan hệ lợi ích trong liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân trên cơ sở thực hiện nguyên tắc cả hai bên cùng có lợi theo sự đóng góp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của các bên. Bên cạnh đó là tuân thủ hợp đồng liên kết kinh tế đã có của hai bên. Nhà nước cần phát huy vai trò, trách nhiệm là chủ thể dẫn dắt, định hướng cũng như “trọng tài” để làm cầu nối vững chắc cho mối liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân. Công cụ của nhà nước chính là các phương án, các chế tài, các quy định cụ thể, chặt chẽ để đảm bảo lợi ích cũng như giải quyết tranh chấp lợi ích giữa doanh nghiệp và hộ nông dân. Một là, để doanh nghiệp và hộ nông dân ngày càng tăng cường liên kết, Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích doanh nghiệp và hộ nông dân liên kết với nhau, có cơ chế khen thưởng, tôn vinh đối với những mô hình liên kết kinh tế bền vững, hiệu quả. Hai là, Nhà nước cần có cơ chế bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và hộ nông dân cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và hộ nông dân sản xuất, kinh doanh, chế biến và tiêu thụ nông sản như các vấn đề về thủ tục hành chính, vốn, đất đai, ưu tiên các dự án của doanh nghiệp liên kết với nông dân đầu tư vào nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Ba là, Nhà nước thiết lập mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa các “nhà” để khắc phục tình trạng doanh nghiệp và hộ nông dân phá vỡ hợp đồng liên kết. Ở đây, Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn là đại diện cho Nhà nước làm cầu nối giữa Nhà nước với các hộ nông dân nói chung và liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hộ nông dân nói riêng. Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn cũng như chính quyền địa phương cần phát huy tối đa vai trò của mình để khuyến khích hộ nông dân không ngừng đổi mới và phát triển; cần tăng cường vận động, thuyết phục các hộ nông dân tham gia liên kết kinh tế với doanh nghiệp cũng như tăng cường tuyên truyền cho các hộ nông dân về những vấn đề liên quan đến liên kết kinh tế, về ứng dụng khoa học công nghệ và thay đổi tư duy sản xuất phù hợp với thời đại; tuyên truyền cho hộ nông dân ý thức tuân thủ đúng các cam kết của hợp đồng kinh tế, bỏ tư duy tự phát. Đối với các doanh nghiệp, trước hết, cần nhận thức rằng chính các hộ nông dân là chủ thể mang đến lợi ích cho doanh nghiệp. Với nhận thức ấy, doanh nghiệp cần tạo được uy tín với hộ nông dân, để hộ nông dân yên tâm tin tưởng mà gắn bó với doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần có phương pháp, cách thức tổ chức quản lý phù hợp với đặc thù hộ nông dân từng địa phương. Doanh nghiệp cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình kỹ thuật của hộ nông dân, hướng dẫn, giúp đỡ hộ nông dân kịp thời khi gặp khó khăn. Doanh nghiệp cũng cần gương 2 đến môi trường của quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản; kiểm soát vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm